Nhắc đến đồng bào dân tộc Tày, người ta không chỉ nhớ về tiếng hát then - đàn tính mượt mà, đằm thắm, mà còn là những chiếc quạt cọ, nón mê, đôi lồng... được tạo nên từ đôi bàn tay khéo léo của bà con. Từ bao đời nay, việc đan lát từ cây tre, cây cọ tạo ra những vật dụng để phục vụ chính cuộc sống sinh hoạt, lao động hằng ngày đã trở thành nghề thủ công truyền thống của đồng bào dân tộc Tày huyện Ba Chẽ.
Bà Bùi Thị Hồng vẫn thường đan quạt cọ để sử dụng và tặng người thân, bạn bè.
Những năm gần đây, nghề đan lát truyền thống của người dân tộc Tày ở huyện Ba Chẽ cũng đang dần mai một khi nhu cầu cuộc sống ngày càng phát triển, nhiều đồ vật được sản xuất công nghiệp, bằng đa dạng chất liệu đã thay thế những đồ vật làm từ tre, cọ... Song không vì thế mà nghề đan lát truyền thống này bị mất đi, nhiều hộ dân vẫn tha thiết giữ nghề, truyền dạy cho con cháu như cách để bảo tồn gìn giữ một nét văn hóa đặc sắc của dân tộc mình.
Nổi tiếng là người đan quạt cọ giỏi ở thôn Làng Dạ, xã Thanh Lâm, bà Bùi Thị Hồng (SN 1965) vẫn thường xuyên đi rừng lấy cọ về đan quạt, tham gia đan quạt biểu diễn tại các dịp lễ hội trên địa bàn huyện. Vừa đan thoăn thoắt bà Hồng vừa kể: Tôi là người xã Đạp Thanh, sau lập gia đình mới về Thanh Lâm. Trước ở Đạp Thanh trồng rất nhiều cọ. Vì vậy, mọi người cũng không ai rõ nghề đan tre, đan cọ có từ bao giờ nhưng từ khi còn bé hầu hết đứa trẻ nào cũng được bố mẹ dạy cho cách đan quạt cọ. Ngày trước điện lưới chưa có như bây giờ nên không thể thiếu chiếc quạt vào những ngày hè nắng nóng. Tuy ngày nay nhu cầu dùng quạt cọ không nhiều song cứ có thời gian rảnh là tôi ngồi đan quạt vừa là giữ nghề, truyền dạy con cháu, vừa để tặng bạn bè, hàng xóm sử dụng khi cần.
Kỹ thuật đan quạt cọ chủ yếu sử dụng cách đan nong đôi, nong mốt.
“Đan quạt không khó song đòi hỏi sự cẩn thận, tỉ mỉ, bởi để hoàn thiện một chiếc quạt cọ thường phải trải qua nhiều bước. Ngay từ khâu chọn nguyên liệu phải cẩn thận, chọn cây cọ không quá già và không quá non. Khi mang cọ về nhà sẽ phải chẻ cọ rồi phơi nắng thật khô nếu để ẩm dính nước cọ sẽ bị mốc. Sau khi cọ phơi khô là có thể dùng để đan quạt. Kỹ thuật đan quạt thì chủ yếu sử dụng cách đan nong đôi, nong mốt khá đơn giản, quan trọng nhất là đan chắc tay, không để bị kẽ hở, như vậy chiếc quạt mới chắc, bền, đẹp. Khi đã có nguyên liệu sẵn sàng tôi đan một chiếc quạt chỉ mất khoảng 15 phút” - bà Hồng cho biết thêm.
Nghề đan lát cứ thế gắn bó với đời sống của người Tày qua bao thế hệ. Trong gia đình của người Tày, việc đan lát không chỉ là việc của phụ nữ mà đàn ông cũng đan rất thành thạo các đồ dùng, vật dụng dùng trong sinh hoạt và lao động như: Nón mê, lồng, mẹt, sàng... Tuy là đồ dùng hằng ngày song những sản phẩm đan lát của người Tày đều thể hiện tính thẩm mỹ, bàn tay khéo léo của người đan.
Phần thi đan quạt nan và thi đan lồng gà được tổ chức giữa các thôn tại Ngày hội Văn hóa dân tộc Tày huyện Ba Chẽ lần thứ nhất năm 2023. Ảnh: Phạm Học
Ông Vi Mạnh Vùng, thôn Tân Tiến, xã Đồn Đạc, chia sẻ: Đối với các đồ đan tre như lồng, sàng, mẹt, nia... thì kỹ thuật chẻ tre, vót tre rất quan trọng. Sau khi chẻ nhỏ, nan tre cần được vót kỹ để có độ dẻo dai. Nan tre đạt chuẩn cần đủ mềm, mỏng để có thể đan lát dễ dàng. Mỗi đồ dùng lại có một kỹ thuật đan khác nhau song đa phần vẫn sử dụng các cách đan nong đôi, nong mốt. Trong đó, đan lồng gà là đơn giản nhất còn đối với các loại mẹt, sàng khó nhất là kỹ thuật uốn nẹp viền phải đảm bảo có đủ độ dẻo khi uốn mới không bị gẫy và tạo được khuôn tròn.
Những năm gần đây, đa số những người còn duy trì được nghề đan lát truyền thống của đồng bào dân tộc Tày Ba Chẽ là những người cao tuổi. Đứng trước nguy cơ bị mai một của nghề đan lát, huyện Ba Chẽ đã quan tâm triển khai các giải pháp gìn giữ, phát huy nghề truyền thống. Theo đó, huyện đã phối hợp với Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam thực hiện sưu tầm tại 8 xã, thị trấn về trang phục, đồ dùng sinh hoạt, công cụ sản xuất, nhạc cụ (quạt cọ, quạt hòm, niểng, sung, rổ, giá, sàng, nia, cào thóc...) thuộc các dân tộc Dao, Sán Chay, Tày trên địa bàn huyện. Tại Ngày hội Văn hóa dân tộc Tày, hội Trà hoa vàng... đều tổ chức không gian trưng bày các hiện vật văn hóa và nông cụ, biểu diễn các nghề truyền thống của cộng đồng dân tộc Tày như: Đan quạt cọ, nón mê, đan lồng, đan mẹt, đan sàng... Đồng thời, mở các lớp truyền dạy nghề truyền thống, văn nghệ dân gian tại các xã, trường học. Qua đó, góp phần gìn giữ, bảo tồn giá trị văn hóa đặc sắc, độc đáo, thúc đẩy phát triển du lịch văn hóa tại địa phương.